Nhân sâm là một vị thuốc rất đặc biệt, mặc dù vẫn phải nhập từ Hàn Quốc, Trung Quốc… nhưng trên thị trường Việt Nam cũng rất dễ mua. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu đúng về nhân sâm và không phải bệnh nào cũng dùng được vị thuốc này.
Huyền sâm
Nhân sâm tên khoa học là Panax ginseng C. A. Mey, họ ngũ gia bì, được bào chế dưới nhiều dạng như bạch sâm, hồng sâm… Trong Đông y, mọi vị thuốc đều được phân vào từng nhóm theo tính vị, công năng của chúng. Tuyệt nhiên không có vị thuốc nào được gọi theo cách chung chung, như “đại bổ” cả, mà phải là bổ khí, hay bổ huyết, bổ dương, hay bổ âm. Nhân sâm được xếp vào nhóm “bổ khí”, với tính chất đại bổ nguyên khí, ích huyết, sinh tân, định thần ích trí. Dùng khi chân khí trong cơ thể bị suy yếu, biểu hiện người mệt mỏi, rã rời.
Nhân sâm
Đừng ngộ nhận về nhân sâm
Về tính, vị: Nhiều người thường ngộ nhận, nhân sâm có tính lạnh, hơi lạnh, hay hàn. Vì vậy, khi dùng phải chích với nước cốt của sinh khương (gừng tươi: tính ôn). Trên lâm sàng, đôi khi nhân sâm vẫn được chích với nước gừng tươi để làm tăng thêm tính ấm (tính ôn) của vị thuốc. Theo các tài liệu khoa học, nhân sâm có vị ngọt, hơi đắng, tính ôn (hoặc tính bình). Chỉ có tây dương sâm, sâm Mỹ, cùng họ ngũ gia bì là có vị ngọt, hơi đắng, tính lương (tính mát), cũng có tác dụng bổ khí dưỡng âm, thanh nhiệt, sinh tân. Dùng trị khí hư, âm hao, cơ thể hư nhiệt.
Về thành phần hóa học: thành phần chính của nhân sâm là saponin triterpenic tetracyclic, nhóm dammaran, gọi chung là ginsenosid, bao gồm tới 28 thành phần khác nhau. Có nghĩa là nhân sâm không chứa saponin steroid như một số người lầm tưởng.
Sâm bố chính
Nhân sâm có được dùng khi cảm mạo phong hàn?
Khi bị cảm mạo phong hàn (cảm lạnh), chỉ cần sử dụng một số vị thuốc mang tính chất phát tán giải biểu hàn như tía tô, hành ăn với cháo nóng để làm ra mồ hôi là được.
Hoặc dùng thuốc sắc: ma hoàng, quế chi, mỗi vị 9g; hạnh nhân, cam thảo, mỗi vị 6g, sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần, trước bữa ăn 1,5 giờ. Hoặc: quế chi, gừng tươi, bạch thược, táo thuốc, mỗi vị 9g; cam thảo 4g, sắc uống như bài trên.
Tuy nhiên, khi sức đề kháng của cơ thể kém, hàn tà xâm nhập gây sốt cao, không có mồ hôi, rét rất nhiều, đau đầu, đau gáy, cứng gáy, mũi ngạt tắc, ho nhiều, cơ thể và chân tay nhức mỏi, đau đớn, toàn thân mệt mỏi thì có thể dùng nhân sâm phối hợp với khương hoạt, độc hoạt, sài hồ, tiền hồ, xuyên khung, chỉ xác, cát cánh, bạch linh, mỗi vị 30g; cam thảo 15g.
Các vị tán thành bột mịn, mỗi lần uống 6 – 9g với nước sắc gừng tươi, ngày 2 – 3 lần, trước bữa ăn 1,5 giờ. Phương thuốc này chỉ phát huy tốt khi dùng dạng thuốc tán, có các vị độc hoạt, khương hoạt, tiền hồ, xuyên khung, trong thành phần chủ yếu là tinh dầu, sẽ bị bay hơi khi sắc thuốc.
Như vậy, chỉ có thể dùng nhân sâm khi bị cảm mạo phong hàn kèm theo chứng thấp. Đây là phương thuốc có tính ích khí vừa làm ra mồ hôi, vừa phù chính, vừa trừ thấp, rất phù hợp với chứng phong hàn hiệp thấp, nhất là khi thời tiết lạnh.